Đau sau phẫu thuật là gì? Các công bố khoa học về Đau sau phẫu thuật

Postoperative pain is a common result of surgeries, driven by tissue injury and inflammatory responses, and can be acute or chronic. Effective management is crucial for patient recovery and includes both pharmacological and non-pharmacological methods. Analgesics, opioids, and adjuvants aid in pain relief, while physical therapy, psychological support, and complementary therapies enhance recovery. Challenges include patient response variability, opioid misuse risks, and the need for multimodal strategies. Comprehensive assessment with tools like the Visual Analog Scale aids in addressing these issues, ultimately improving patient outcomes post-surgery.

Certainly! Below is a professional blog article on the topic of "Postoperative Pain" formatted in HTML. ```html

Postoperative Pain: An Overview

Postoperative pain is a common and expected consequence of surgical procedures. It is a critical aspect of postoperative care as it not only affects a patient's comfort and recovery but can also lead to complications if not managed effectively. Understanding the underlying mechanisms, assessment, and management strategies for postoperative pain is crucial for healthcare providers.

Causes of Postoperative Pain

The primary cause of postoperative pain is tissue injury resulting from the surgical incision and manipulation. This injury triggers a cascade of inflammatory responses, leading to the sensitization of peripheral and central pain pathways. Other contributing factors include nerve damage, the type and duration of surgery, and individual patient factors such as age, sex, and psychological state.

Types of Postoperative Pain

Postoperative pain can be classified into acute and chronic pain based on its duration and characteristics:

  • Acute Pain: Typically begins immediately after surgery and is influenced by surgical trauma. It generally resolves as the healing process progresses.
  • Chronic Pain: Pain persisting for more than three months after surgery. It may result from nerve damage or other unresolved issues.

Assessment of Postoperative Pain

Accurate assessment is crucial for effective pain management. Several tools and scales, such as the Visual Analog Scale (VAS) and Numeric Rating Scale (NRS), are utilized to evaluate the intensity of postoperative pain. Healthcare providers may also consider behavioral indicators and patient self-reports to gain a comprehensive understanding of the pain experience.

Management of Postoperative Pain

Effective pain management strategies are essential to enhance recovery and patient satisfaction. These strategies may include:

Pharmacological Interventions

  • Analgesics: Non-opioid analgesics such as acetaminophen and NSAIDs are commonly used for mild to moderate pain.
  • Opioids: Used for moderate to severe pain but require careful monitoring due to the risk of side effects and dependency.
  • Adjuvants: Medications such as muscle relaxants or antidepressants that can enhance pain relief effects.

Non-Pharmacological Interventions

  • Physical Therapy: Techniques like physical exercises and hydrotherapy can promote healing and reduce pain.
  • Psychological Support: Cognitive-behavioral therapy (CBT) and counseling can help manage pain perception and related anxiety.
  • Complementary Therapies: Acupuncture, relaxation techniques, and other modalities can complement traditional pain management strategies.

Challenges in Postoperative Pain Management

Despite advances in pain management, several challenges persist:

  • Variable Patient Responses: Individual variations in pain perception and response to treatment can complicate management.
  • Opioid Crisis: The potential for opioid misuse necessitates cautious prescribing practices.
  • Multimodal Approaches: Integrating multiple pain relief strategies requires coordinated care efforts among healthcare teams.

Conclusion

Postoperative pain is an inevitable aspect of the surgical experience that requires careful attention and effective management. By adopting a comprehensive approach that includes both pharmacological and non-pharmacological interventions, healthcare providers can significantly improve patient outcomes and enhance the overall surgical recovery process.

```This article provides a broad overview of postoperative pain, its causes, types, assessment methods, management strategies, and challenges in handling it effectively, in a professional tone similar to a Wikipedia entry.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "đau sau phẫu thuật":

Hiệu quả của Propofol, Desflurane và Sevoflurane đối với sự phục hồi chức năng cơ tim sau phẫu thuật động mạch vành ở bệnh nhân người lớn tuổi có nguy cơ cao
Anesthesiology - Tập 99 Số 2 - Trang 314-323 - 2003
Bối cảnh Nghiên cứu hiện tại đã điều tra tác động của propofol, desflurane và sevoflurane đối với sự phục hồi chức năng cơ tim ở bệnh nhân phẫu thuật động mạch vành có nguy cơ cao. Bệnh nhân có nguy cơ cao được định nghĩa là những người trên 70 tuổi có bệnh lý ba mạch vành và phân suất tống máu dưới 50%, với khả năng điều chỉnh chức năng cơ tim phụ thuộc chiều dài bị suy giảm. Phương pháp Bệnh nhân phẫu thuật động mạch vành (n = 45) được phân ngẫu nhiên để nhận truyền kiểm soát mục tiêu của propofol hoặc gây mê qua đường hô hấp với desflurane hoặc sevoflurane. Chức năng tim được đánh giá trong và sau phẫu thuật 24 giờ bằng cách sử dụng catheter Swan-Ganz. Trong phẫu thuật, một catheter áp lực độ tin cậy cao được đặt tại tâm nhĩ và thất trái và phải. Phản ứng với tải trọng tim gia tăng, được thực hiện qua việc nâng chân, được đánh giá trước và sau tuần hoàn phổi nhân tạo (CPB). Tác động lên khả năng co bóp được đánh giá qua việc phân tích thay đổi dP/dt(max). Tác động lên khả năng thư giãn được đánh giá qua việc phân tích sự phụ thuộc tải của thư giãn cơ tim. Mức độ Troponin I trong tim sau phẫu thuật được theo dõi trong 36 giờ. Kết quả Sau CPB, chỉ số tim và dP/dt(max) thấp hơn đáng kể ở bệnh nhân dùng gây mê propofol. Sau CPB, việc nâng chân dẫn đến giảm dP/dt(max) lớn hơn đáng kể ở nhóm propofol, trong khi phản ứng ở nhóm desflurane và sevoflurane tương đương với phản ứng trước CPB. Sau CPB, sự phụ thuộc tải của sự sụt áp suất tâm thất trái cao hơn đáng kể ở nhóm dùng propofol so với nhóm dùng desflurane và sevoflurane. Mức độ Troponin I cao hơn đáng kể ở nhóm dùng propofol. Kết luận Sevoflurane và desflurane nhưng không phải là propofol đã bảo toàn chức năng tâm thất trái sau CPB ở bệnh nhân phẫu thuật động mạch vành có nguy cơ cao, với ít dấu hiệu tổn thương cơ tim sau phẫu thuật.
#Propofol #Desfluran #Sevofluran #Phẫu thuật động mạch vành #Chức năng cơ tim #Bệnh nhân người lớn tuổi có nguy cơ cao #Chỉ số tim #Troponin I #Tuần hoàn phổi nhân tạo (CPB) #Dấu hiệu tổn thương cơ tim
Giảm đau sau phẫu thuật và phục hồi sớm sau thay toàn bộ khớp gối: So sánh giữa truyền tĩnh mạch low-dose ketamine liên tục và nefopam
European Journal of Pain - Tập 13 Số 6 - Trang 613-619 - 2009
Tóm tắtMột nghiên cứu tiền cứu, mù đôi đã so sánh tác động của nefopam và ketamine trong việc kiểm soát đau và phục hồi sau thay toàn bộ khớp gối.Bảy mươi lăm bệnh nhân được phân ngẫu nhiên để nhận nefopam hoặc ketamine với liều bolus 0.2mgkg−1, sau đó là truyền liên tục 120μgkg−1h−1 cho đến khi kết thúc phẫu thuật, và 60μgkg−1h−1 cho đến ngày hậu phẫu thứ hai, hoặc một thể tích tương đương dung dịch nước muối sinh lý làm giả dược. Điểm đau được đo bằng thang đo analog thị giác lúc nghỉ và vận động, và lượng tiêu thụ morphine quan sát qua 48 giờ. Chúng tôi đo độ gập tối đa của đầu gối vào ngày hậu phẫu thứ ba, và thời gian để đạt độ gập 90°.Ketamine và nefopam làm giảm tiêu thụ morphine (p<0.0001). Điểm đau, thấp hơn lúc nghỉ và vận động trong nhóm ketamine so với hai nhóm khác trong tất cả các lần đo. Điểm đau thấp hơn ở bệnh nhân nhận nefopam so với giả dược, khi đến phòng hồi sức và 2h sau. Ketamine cải thiện độ gập đầu gối vào ngày hậu phẫu thứ ba (59° [33–63] so với 50° [47–55] và 50° [44–55] ở các nhóm ketamine, giả dược và nefopam, tương ứng, p<0.0002) và giảm thời gian đầu gối gập đến 90° (9.1±4.2 so với 12.3±4.0 ngày, ở các nhóm ketamine và giả dược, tương ứng, p=0.01).Ketamine tạo ra hiệu ứng giảm spari opioid, giảm cường độ đau, và cải thiện vận động sau thay toàn bộ khớp gối. Nefopam đạt kết quả ít đáng kể hơn trong hoàn cảnh đó.
#nefopam #ketamine #giảm đau sau phẫu thuật #thay thế hoàn toàn khớp gối #phục hồi chức năng #sử dụng opioid tiết kiệm #thang đo đau #biện pháp kiểm soát đau #phục hồi sau phẫu thuật
Đánh giá hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật nội soi khớp gối của phương pháp gây tê liên tục thần kinh đùi kết hợp gây tê thần kinh hông to dưới hướng dẫn siêu âm
Mục tiêu: So sánh hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật nội soi khớp gối của phương pháp gây tê liên tục thần kinh đùi kết hợp gây tê thần kinh hông to dưới hướng dẫn siêu âm với phương pháp gây tê ngoài màng cứng. Đối tượng và phương pháp: Can thiệp lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng, 60 bệnh nhân phẫu thuật nội soi khớp gối được chia thành 2 nhóm bằng nhau: Nhóm 1 được giảm đau sau mổ bằng gây tê ngoài màng cứng, nhóm 2 được giảm đau sau mổ bằng gây tê thần kinh đùi liên tục kết hợp gây tê thần kinh hông to. Kết quả: Điểm đau VAS trung bình khi nghỉ ngơi và khi vận động của hai nhóm tương đương nhau tại hầu hết thời điểm nghiên cứu. Hiệu quả giảm đau tốt và khá đạt là 93,3%  ở nhóm gây tê thần kinh đùi và thần kinh hông to so với 96,7% ở nhóm gây tê ngoài màng cứng. Tỷ lệ gây tê thành công đạt 100% so với 96,7% ở nhóm gây tê ngoài màng cứng. Kết luận: Phương pháp gây tê thần kinh đùi liên tục kết hợp gây tê thần kinh hông to dưới hướng dẫn siêu âm có hiệu quả giảm đau sau mổ nội soi khớp gối tương đương với phương pháp gây tê ngoài màng cứng.
#Gây tê thần kinh đùi #thần kinh hông to #gây tê ngoài màng cứng #phẫu thuật nội soi khớp gối.
Đánh giá hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật thay khớp háng của phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng liên tục dưới hướng dẫn siêu âm
Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá tác dụng giảm đau và các tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê liên tục cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn siêu âm sau phẫu thuật thay khớp háng. 30 bệnh nhân phẫu thuật thay khớp háng theo chương trình được được giảm đau sau mổ bằng phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng liên tục dưới hướng dẫn của siêu âm tại Trung tâm Gây mê và Hồi sức ngooại khoa – Bệnh viện Việt Đức từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2019. Thời gian thực hiện kĩ thuật, vùng phong bế cảm giác, điểm đau VAS khi nghỉ và khi vận động, mức độ hài lòng của bệnh nhân và số lượng morphin tiêu thụ và một số tác dụng không mong muốn được ghi lại trong 48 giờ sau mổ. Thời gian thực hiện kĩ thuật trung bình là 16,03 ± 2,80 (phút). 100% người bệnh phong bế được thần kinh chậu bẹn chậu hạ vị; 96,7% phong bế được thần kinh đùi và thần kinh bì đùi ngoài; 70% phong bế được thần kinh sinh dục đùi và 50% phong bế được thần kinh bịt. Điểm VAS trung bình khi nghỉ đều < 3 và khi vận động đều xấp xỉ 4 ở tất cả các thời điểm. Có 1 bệnh nhân phải giải cứu bằng morphin với tổng liều 36 mg và 96,7% bệnh nhân có mức độ hài lòng và rất hài lòng. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy gây tê cơ vuông thắt liên tục dưới hướng dẫn siêu âm có hiệu quả giảm đau tốt sau mổ cho các phẫu thuật thay khớp háng.
#gây tê cơ vuông thắt lưng #thay khớp háng #hướng dẫn của siêu âm #giảm đau sau mổ
ĐÁNH GIÁ PHONG BẾ CẢM GIÁC SAU GÂY TÊ MẶT PHẲNG CƠ DỰNG SỐNG NGANG MỨC T7
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá vùng phong bế cảm giác sau gây tê mặt phẳng cơ dựng sống ngang mức mỏm ngang T7 liều duy nhất hai bên. Đối tượng và phương pháp: 30 bệnh nhân phẫu thuật sỏi đường mật tại Bệnh viện Việt Đức từ tháng 1/2022 đến 9/2022. Tiến hành ESPB ngang mức mỏm ngang T7 liều duy nhất hai bên trước phẫu thuật và đánh giá lại phong bế cảm giác vùng ngực bụng trước bên và chi dưới sau gây tê 30 phút. Kết quả: 30 bệnh nhân tham gia nghiên cứu với thời gian thực hiện gây tê trung bình là 11,50±2,36 phút, khoảng cách từ da đến mặt phẳng cơ dựng sống được đo dưới hình ảnh siêu âm trung bình là 2,17±0,92 cm. Có 2 bệnh nhân phong bế thất bại. Số đốt da phong bế trung bình là 6,43 (2-10 đốt), với phần lớn bệnh nhân có giảm cảm giác đốt da T6 đến T9 và trên 50% bệnh nhân gây tê đạt phong bế từ đốt da T4 đến T10. Không có bệnh nhân nào gặp biến chứng trong nghiên cứu. Kết luận: Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống ở mức ngang mỏm ngang T7 cho hiệu quả phong bế cảm giác tốt, tuy nhiên mức phong bế cảm giác khác biệt nhiều giữa các bệnh nhân.
#phong bế cảm giác gây tê mặt phẳng cơ dựng sống #đau sau phẫu thuật sỏi mật
Đánh giá sự hài lòng của người bệnh khi được sử dụng phương pháp giảm đau ngoài màng cứng sau phẫu thuật vùng bụng
Mục tiêu: Đánh giá sự hài lòng của người bệnh khi sử dụng giảm đau ngoài màng cứng và xác định một số yếu tố liên quan đến sự hài lòng của người bệnh. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 126 người bệnh phẫu thuật vùng bụng áp dụng phương pháp giảm đau ngoài màng cứng tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức từ tháng 9 năm 2020 đến tháng 3 năm 2021. Bộ câu hỏi bao gồm thông tin chung, thang điểm đau VAS và bộ câu hỏi đánh giá về hài lòng của người bệnh được sử dụng trong nghiên cứu này. Chúng tôi sử dụng thống kê mô tả để mô tả tần suất và tỷ lệ phần trăm đặc điểm người bệnh, kiểm định Chi bình phương để đánh giá một số yếu tố liên quan đến sự hài lòng của người bệnh. Kết quả và kết luận: Người bệnh là nam giới chiếm 53,9%, dưới 60 tuổi 58,7%, và có thời gian mổ trung bình 53,1%. Hài lòng về hiệu quả giảm đau và hài lòng chung về giảm đau tương ứng là 83,3% và 87,1%, chỉ có tê bì chân khi dùng giảm đau ngoài màng cứng có ý nghĩa thống kê liên quan đến sự không hài lòng về dịch vụ giảm đau của bệnh viện (p<0,05). 
#Đau sau mổ #giảm đau ngoài màng cứng #hài lòng của người bệnh
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU PHẪU THUẬT LẤY THAI BẰNG KỸ THUẬT GÂY TÊ CƠ VUÔNG THẮT LƯNG DƯỚI HƯỚNG DẪN CỦA SIÊU ÂM TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA QUỐC TẾ VINMEC PHÚ QUỐC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ lấy thai bằng kỹ thuật gây tê cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn của siêu âm; Tìm hiểu một số tác dụng không mong muốn của kỹ thuật gây tê cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn của siêu âm. Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu can thiệp, mô tả cắt ngang, không đối chứng. Kết quả: Về hiệu quả và thời gian giảm đau: Thời gian bắt đầu tác dụng giảm đau trung bình 12,68 ± 86,02 phút. Thời gian thuốc có tác dụng giảm đau: Từ 0 - 5giờ: 06%; Từ 6 - 10 giờ: 18%; Từ 11 - 15 giờ: 26%; Từ 16 - 20giờ: 12%; Từ 20 giờ trở lên: 38%. Hiệu quả giảm đau sau mổ lấy thai bằng phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng ở mức độ rất tốt và tốt là 100%. Thời gian tác dụng giảm đau kéo dài 16,12 ± 6,82 giờ, (ii) Tác dụng phụ của thuốc và tại biến của kỹ thuật: Không có tai biến, biến chứng nào nghiêm trọng. Tác dụng phụ buồn nôn, nôn là 3%; lạnh run là 5%. Kết luận: Gây tê cơ vuông thắt lưng để giảm đau sau mổ lấy thai rất có hiệu quả và an toàn cho sản phụ.
#Giảm đau #phẫu thuật lấy thai #gây tê cơ vuông thắt lưng #hướng dẫn bằng siêu âm
Đánh giá tác dụng giảm đau sau phẫu thuật của gây tê thần kinh hông to dưới hướng dẫn siêu âm
Mục tiêu: So sánh tác dụng giảm đau sau phẫu thuật khi gây tê thần kinh hông to ở vị trí trước và ngay sau phân chia thành thần kinh chày và thần kinh mác chung dưới hướng dẫn siêu âm. Đối tượng và phương pháp: 70 bệnh nhân phẫu thuật kết xương vùng bàn chân được giảm đau sau mổ bằng liều đơn 20ml hỗn hợp bupivacain 0,25% và adrenalin 1/200.000 gây tê thần kinh hông to dưới hướng dẫn siêu âm, tuổi từ 18 đến 80 tuổi, ASA I, II, chia thành 2 nhóm. Nhóm 1: Tiêm thuốc tê vị trí trước phân chia, nhóm 2: Tiêm thuốc tê vị trí ngay sau phân chia thành thần kinh chày và mác chung. Kết quả: Thời gian khởi phát tác dụng giảm đau ở nhóm 2 (2,66 ± 1,3 phút) ngắn hơn nhóm 1 (4,86 ± 1,91 phút) (p<0,05). Thời gian giảm đau ở nhóm 2 (21,69 ± 1,7 giờ) dài hơn so với nhóm 1 (19,03 ± 2,8 giờ) (p<0,05). Điểm VAS khi nghỉ ở nhóm 2 thấp hơn nhóm 1 (p<0,05) ở các thời điểm sau gây tê 05 phút, 20 phút, 18 giờ, 24 giờ, điểm VAS khi vận động ở nhóm 2 thấp hơn nhóm 1 (p<0,05) tại các thời điểm sau gây tê 05 phút, 20 phút, 3 giờ, 12 giờ, 18 giờ, 24 giờ. Không ghi nhận tai biến, biến chứng trong quá trình thực hiện kỹ thuật. Kết luận: Gây tê thần kinh hông to dưới hướng dẫn siêu âm giảm đau sau phẫu thuật kết xương vùng bàn chân vị trí ngay sau phân chia thành thần kinh chày và mác chung có thời gian khởi phát tác dụng giảm đau ngắn hơn, thời gian giảm đau kéo dài hơn và hiệu quả giảm đau trong 24 giờ sau gây tê tốt hơn so với gây tê vị trí trước phân chia thần kinh. Từ khóa: Gây tê thần kinh hông khoeo, phẫu thuật bàn chân, bao thần kinh hông to chung.  
#Gây tê thần kinh hông khoeo #phẫu thuật bàn chân #bao thần kinh hông to chung
Thực trạng đau ba ngày đầu sau mổ và yếu tố liên quan của người bệnh phẫu thuật vá thông liên nhĩ nội soi
Tạp chí Y Dược cổ truyền Việt Nam - Tập 42 Số 1 - Trang 67-73 - 2022
Mục tiêu: Mô tả triệu chứng đau trong ba ngày đầu sau mổ của người bệnh được phẫu thuật nội soi vá thông liên nhĩ và phân tích một số yếu tố liên quan đến tình trạng đau của người bệnh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu (theo dõi ngày 1, ngày 2, ngày 3) trên 37 người bệnh phẫu thuật vá thông liên nhĩ nội soi có gây tê vùng từ 18 tuổi trở lên tại Viện Tim mạch Việt Nam từ tháng 11 năm 2018 đến tháng 9 năm 2019. Người bệnh được đánh giá mức độ đau bằng thang VAS. Kết quả: Tỷ lệ nam/nữ là 2/3, tuổi trung bình 37,8 ± 13,2 (tuổi). Mức độ đau trung bình của người bệnh giảm từ 3,62±0,82 (ngày thứ 1), 2,27±0,45 (ngày thứ 2), 1,73±0,51 (ngày thứ 3) (p<0,001). Ngày thứ 1, 56,8% đau ít, 40,5% đau vừa, 2,7% rất đau. Ngày thứ 2, 100% đau ít. Ngày 3, 29,7% không đau, 70,3% đau ít. 100% người bệnh đau ở mạn sườn phải, hạ sườn phải. Tỷ lệ đau ở cổ giảm từ 89,2% ở ngày 1 xuống 8,1% ở ngày 2 và 0,0% ở ngày 3. Tỷ lệ đau giữa hai xương bả vai là 59,5% (ngày 1), 37,8% (ngày 2) và 29,7% (ngày 3). Mức độ đau của nữ cao hơn nam, học sinh sinh viên cao hơn công nhân, nông dân, người bệnh rút nội khí quản muộn (6h-24h) cao hơn rút sớm (<6h), người bệnh không được giải thích tình trạng đau trong và sau mổ cao hơn người bệnh được giải thích đầy đủ, các sự khác biệt trên có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Kết luận: Mức độ đau của người bệnh đa phần là từ mức đau vừa trở xuống và giảm dần trong 3 ngày sau mổ (p<0,001). Một số vị trí đau hay gặp mạn sườn trái, hạ sườn trái, cổ. Có yếu tố liên quan giữa mức độ đau với giới tính, nghề nghiệp, thời gian rút nội khí quản, được giải thích tình trạng đau trước mổ.
#Đau sau mổ #phẫu thuật vá thông liên nhĩ nội soi.
Hiệu quả giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống (erector spinae plane block) cho phẫu thuật tim hở
Áp dụng gây tê mặt phẳng cơ dựng sống giúp giảm đau và không cần sử dụng opioid sau phẫu thuật tim hở. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá khả năng giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống cho phẫu thuật tim hở. Thiết kế nghiên cứu can thiệp lâm sàng không đối chứng được thực hiện từ tháng 6/2020 đến tháng 6/2021 tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. 54 bệnh nhân tuổi từ 18 đến 80, có chỉ định mổ tim hở theo kế hoạch, được đặt catheter ESPB hai bên ngay trước khi khởi mê, liều ropivacain tính theo cân nặng bệnh nhân, phối hợp thêm paracetamol truyền tĩnh mạch sau mổ. Điểm visual analogue scale, huyết áp trung bình khi nghỉ và khi vận động được đánh giá tại các thời điểm ngay sau rút nội khí quản và sau rút là 6, 12, 18, 24, 36, 48 giờ; đánh giá khí máu động mạch mỗi 24 và 48 giờ. Kết quả cho thấy điểm VAS trung bình khi nghỉ < 3 và khi vận động ≤ 4. Có 7,4% bệnh nhân phải chuẩn độ morphin; 3,7% bệnh nhân phải phối hợp PCA morphin. ESPB (Erector spinae plane block) không làm tụt huyết áp và các chỉ số khí máu động mạch trong giới hạn bình thường ở các thời điểm nghiên cứu; không có biến chứng sau phẫu thuật. Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống là phương pháp an toàn hiệu quả trong giảm đau sau phẫu thuật tim hở.
#Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống #mổ tim hở #giảm đau.
Tổng số: 85   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 9